Cát thạch anh có thể nói là một trong những vật liệu lọc nước giếng khoan chủ đạo nhất, chỉ cần bề dầy lớp cát > 50 cm, 70% tạp chất nhìn được bằng mắt thường đã có thể xử lý được.
CÔNG DỤNG:
Từ thời xa xưa con người đã biết dùng cát, sỏi để lọc nước. Phát hiện đó vẫn còn nguyên giá trị đến ngay nay. Cát thạch anh dùng trong xử lý nước thải , nước tinh khiết, lọc nước giếng khoan ... Cat thach anh được sử dụng để lọc các thành phần lơ lửng có kích thước hạt nhỏ không có khả năng kết tủa khi để lắng tự nhiên. Trong quá trình lọc, trên bề mặt cát thạch anh sẽ tạo ra lớp màng lọc hỗ trợ cho quá trình lọc, đặc biệt khi hydroxít sắt III Fe(OH)3 kết tủa trên bề mặt cát thạch anh sẽ giúp hấp phụ Asen khi nguồn nước có nguy cơ bị nhiễm Asen. Cát thạch anh là tác nhân rất tốt trong việc giữ các kết tủa dạng bông có độ nhớt cao rất khó tách và khó lọc.
ƯU ĐIỂM:
Sử dụng cát thạch anh có nhiều ưu điểm, không tham gia phản ứng với các tác nhân hoá học có trong nước và không làm ảnh hưởng đến chất lượng nước. Cát thạch anh có thể sử dụng lâu dài, có thể rửa lọc thường xuyên khi bề mặt lọc lắng cặn thành những lớp dày. Cat thach anh có kích thước hạt nhỏ, nên có bề mặt riêng lớn nên hiệu quả lọc cao.
ĐẶC BIỆT khi sử dụng cát thạch anh kèm theo một số vật liệu lọc nước khác nữa ( Hạt cation, Cát manganese, filox..) thì hiệu quả lọc nước rất cao.
THẠCH ANH (silic, ddioxxit, SO2) là một trong số những khoáng vật phổ biến trên Trái Đất. Thạch anh được cấu tạo bởi một mạng liên tục các tứ diện sillic–oxy SiO4, trong đó mỗi oxy chia sẻ giữa hai tứ diện nên nó có công thức chung là SiO2 .Trong thành phần của thạch anh ngoài thành phần chính còn có thể chứa một số chất hơi, chất lỏng: CO2, H2O, NaCl, CaCO3... Các khoáng vật của nhóm thạch anh có công thức rất đơn giản SiO2, là một loạt biến thể đa hình gồm 3 biến thể độc lập: thạch anh, tridimit và cristobalit và tuỳ thuộc vào nhiệt độ, chúng sẽ tồn tại ở các dạng nhất định.
Biến thể nhiệt độ cao của thạch anh kết tinh trong hệ lục phương, biến thể thạch anh vững bền ở nhiệt độ dưới 573°C kết tinh trong hệ tam phương. Dạng tinh thể thường hay gặp là dạng lưỡng tháp lục phương với các mặt lăng trụ rất ngắn hoặc không có. Thạch anh chỉ thành những tinh thể đẹp trong các hỗng hoặc các môi trường hở, có trường hợp gặp các tinh thể nặng tới 1 vài tấn có khi tới 40 tấn. Dạng tinh thể của thạch anh khá đa dạng nhưng đặc trưng là thường gặp các mặt m , và có vết khía ngang trên mặt, mặt khối thoi r và z , lưỡng tháp phức tam phương s , khối mặt thang x ... Ngoài hai biến thể kết tinh thạch anh còn có loại ẩn tinh có kiến trúc tóc: canxedon và thạch anh khác nhau chỉ do quang tính.
Trong thạch anh thường gặp các bao thể thể khí lỏng tạo thành bao thể hai pha.Các bao thể rắn thường gặp nhất là các bao thể kim que của runtin tạo thành những đám bao thể dạng búi tóc hay “tóc thần vệ nữ” cùng với các bao thể tuamalin, actinolit dạng sợi, clorit màu lục, gơtit, hermatit màu nâu đỏ và màu cam và một số các bao thể khác nữa.
Một đặc tính quan trọng của tinh thể thạch anh là nếu tác động bằng các dạng cơ học đến chúng (âm thanh, sóng nước...) vào tinh thể thạch anh thì chúng sẽ tạo ra một điện áp dao động có tần số tương đương với mức độ tác động vào chúng, do đó chúng được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực. Chẳng hạn kiểm soát những sự rung động trong các động cơ xe hơi để kiểm soát sự hoạt động của chúng và được ứng dụng nhiều trong các ngành công nghệ như: làm vật cộng hưởng, vật liệu áp điện, hiệu ứng phát quang âm cực.
Những tinh thể thạch anh đầu tiên được sử dụng bởi chúng có tính chất “áp điện”, có nghĩa là chúng chuyển các dao động cơ khí thành điện áp và ngược lại, chuyển các dao động cơ khí thành các xung điện áp. Tính chất áp điện này được Jaquest Curie phát hiện năm 1880 và từ đó chúng được sử dụng vào trong các mạch điện tử do tính chất hữu ích này.
Lần đầu tiên Walter.C Cady ứng dụng thạch anh vào một bộ kiểm soát dao động điện tử vào năm 1921. Ông công bố kết quả vào năm 1922 và đến năm 1927 thì Warren A. Marrison đã ứng dụng tinh thể thạch anh vào điều khiển sự hoạt động của các đồng hồ. Thạch anh ở dạng hạt (cát, bột) được sử dụng làm vật liệu đánh bóng, là vật liệu quan trong trong công nghệ bán dẫn.