nhựa, mỗi con đường dài khoảng 10 km chạy từ bắc xuống nam thì còn lại là đường đất, không có vỉa hè, không có cống rãnh, nhiều đoạn nước bẩn chảy lênh láng; người dân có khi tạt nước bẩn lên mặt đường để chống bụi.
Khi đặt chân đến Yangon tôi đã có cảm giác ở đất nước này thời gian như ngừng lại cách đây vài chục năm khi nhìn thấy trên đường phố những khu chung cư cũ kỹ, những chiếc xe khách, xe lam từ thập niên 1960 vẫn cần mẫn chở người và hàng hóa, hành khách chen kín trong thùng xe và bu bám cả bên ngoài xe giống như ở Việt Nam thời bao cấp.
Người dân Bagan cày bừa giống như tổ tiên họ đã làm nhiều thế kỷ trước.
Tới Bagan cái cảm giác ấy còn đậm thêm, thậm chí có lúc đứng nhìn người nông dân đánh đôi bò kéo cày trên cánh đồng đầy cát, phía sau nhấp nhô những đền tháp hoang tàng, tôi cứ cảm giác rằng thời gian đã dừng lại hàng trăm năm, hàng ngàn năm và nền văn minh vật chất của thế kỷ 21 dường như chỉ là một ảo ảnh.
Đi trong khu di tích Bagan đôi lúc tôi tưởng như mình đang đi trên đất Phan Rang, Ninh Thuận: cũng những cánh đồng rộng, bầu trời cao và xanh, những con đường lầm cát chạy giữa các bụi cây xương rồng, cây keo và những hàng cây thốt nốt. Người dân ở đây không trồng lúa, cũng không trồng các loại cây công nghiệp vì không có nước tưới; họ chỉ trồng những giống cây ngắn ngày và chịu khô hạn; dùng bò kéo cày bừa như tổ tiên họ từng làm thuở Bagan còn là một kinh đô thịnh vượng. Tại thời điểm này trong năm, việc thu hoạch đã xong, chung quanh các đền tháp là những cánh đồng trống, phẳng lì và lộng gió.
Hoạt động kinh tế chính của Bagan là dịch vụ du lịch và các nghề thủ công như đan lát, chạm khắc gỗ, sản xuất hàng sơn mài. Đồ sơn mài của Bagan nổi tiếng thế giới và cũng là một “sản phẩm du lịch” hấp dẫn, song do thời gian hạn hẹp, tôi chưa có dịp đi thăm các cơ sở làm sơn mài ở làng Myinkaba trên đường tới New Bagan, đành phải hẹn một dịp khác.
Ở Bagan, xe hơi là của hiếm, người dân vẫn đi lại trên những chiếc xe tải nhỏ, được che thêm tấm bạt trên thùng xe làm nơi chở người; có khá nhiều chiếc máy cày kéo theo sau cái rơ-móc để chở người hay vật liệu xây dựng, máy nổ ầm ầm và khói bay mịt cả một vùng.
Một cô gái Bagan mài rễ cây lấy bột thanaka để mời du khách dùng thử.
Đàn ông, đàn bà Myanmar đều mặc váy; đàn ông ăn trầu và hút thuốc lá; đàn bà thường bôi trên mặt một loại bột màu vàng, gọi là thanaka, làm từ rễ một loại cây bản địa, có tác dụng dưỡng da, chống nắng. Bột rễ cây thanaka, trộn với chất keo nha đam (aloha vera), ép thành từng bánh nhỏ như bánh quy, hoặc đựng trong lọ mỹ phẩm, là một trong những đặc sản của Bagan mà du khách thường mua làm lưu niệm. Và cũng giống như ở những thị trấn nhỏ ở Việt Nam, đàn ông thường tụ tập trong các quán trà, bàn tán suốt ngày về các mẫu xe gắn máy mới, điện thoại di động mới… đang là mốt thời thượng ở đất nước vừa mở cửa giao thương này.
Nói chung, người Myanmar ở Bagan rất thân thiện, dễ mến, một phần do nền văn hóa truyền thống, một phần do chủ trương chào đón và chăm sóc du khách của xứ này. Nhưng cũng như ở những vùng du lịch khác, những người bán hàng rong ở đây thường chèo kéo, bu bám du khách để chào mời dịch vụ của họ.
Từ Bagan nghĩ về Mỹ Sơn
Xét về giá trị lịch sử, về đặc điểm kiến trúc, khu di tích Bagan rất gần gũi với thánh địa Mỹ Sơn (huyện Duy Xuyên, Quảng Nam): cũng những đền tháp bằng gạch đỏ uy nghi mang trên mình bao lớp phế hưng. Bởi vậy, cũng như những người Việt từng đặt chân tới miền đất Phật Bagan, cảm giác chung của chúng tôi là nghĩ về Mỹ Sơn, về những ngọn tháp Chăm cô quạnh trên dải đất miền Trung nắng gió, từ Quảng Bình tới Ninh Thuận.
Có người nói rằng, so với hàng ngàn đền tháp còn khá nguyên vẹn của Bagan thì những đền tháp Mỹ Sơn “thật tội nghiệp”: chỉ vỏn vẹn vài ba tháp mà hầu hết đã hoang tàn đổ nát, trông như những “lò gạch cũ” bỏ hoang.
Cũng có thể như thế. Chỉ xin lưu ý rằng, từ năm 1989, khu di tích Mỹ Sơn đã chính thức được Tổ chức Văn hóa, Giáo dục và Khoa học của Liên hiệp quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hóa thế giới, hiện đang được các chuyên gia khảo cổ của Việt Nam, Ý, Nhật và Ba Lan nỗ lực trùng tu, tôn tạo để giữ cho hậu thế một di sản kiến trúc tôn giáo đặc sắc. Trong khi đó, Bagan đã nhiều lần bị UNESCO từ chối, không đưa vào danh sách Di sản văn hóa thế giới, dù quy mô và bề dày lịch sử của Bagan hơn hẳn Mỹ Sơn.
Xe thổ mộ, xe ngựa là phương tiện di chuyển thích hợp nhất cho du khách.
Nguyên nhân là vì Myanmar đã thực hiện không tốt việc trùng tu, bảo quản và tôn tạo khu di tích có một không hai này. Để thu hút du khách, người ta đã cho làm một con đường bốn làn xe hơi xuyên qua khu di tích Bagan Cổ nối thị trấn Nyang-u với thị trấn New Bagan, đã xây một “tháp ngắm cảnh” (Seeing Tower) cao vòi vọi ngay giữa khu di tích, thậm chí còn cho mở một sân golf ngay ở nơi cần bảo tồn nghiêm ngặt.
Tệ hơn nữa, công cuộc trùng tu, tôn tạo đã phần nào làm biến dạng các đền tháp, hoặc khiến cho chúng không còn giữ nguyên được hình dáng, đường nét và chất liệu nguyên thủy, từ đó làm giảm giá trị của di tích cả về lịch sử lẫn văn hóa. Có nơi, như đền Sulamani, chùa vàng Shwezigon… người ta còn dùng cả gạch men để lát lên những lối đi mà ngày xưa chỉ là đường đất, đường đá. Việc lạm dụng vàng để tô trát lên đền tháp, lên tượng Phật cũng khiến cho các di tích này trở nên “mới mẻ”, “hiện đại” một cách đáng ngờ.
Dù sao, với những gì còn giữ được, với những du khách và người hành hương bình thường, Bagan xứng đáng là một điểm đến hết sức hấp dẫn mà trong hai ngày lang thang tôi mới chỉ chạm đến một chút vỏ bên ngoài. Từ Bagan, nhìn về Mỹ Sơn càng thấy phải quý những gì mà đất nước mình đang có để mà trân trọng, rút ra bài học từ Bagan để mà gìn giữ di tích sao cho xứng đáng với công khó của tiền nhân.
Saigon, tháng 6-2013.
Bài và ảnh: Huỳnh Hoa